Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là nội dung quan trọng trong Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia
Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu tỷ lệ tiết kiệm năng lượng trên tổng
tiêu thụ năng lượng cuối cùng so với kịch bản phát triển bình
thường đạt khoảng 7 - 10% vào năm 2030 và khoảng 14 - 20% vào năm
2045.
Ngày 1/3/2024, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số
215/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo đó, quan điểm phát triển năng lượng Việt Nam đến 2030,
tầm nhìn đến năm 2045 nêu rõ sử dụng năng lượng tiết kiệm,
hiệu quả, bảo vệ môi trường phải được xem là quốc sách quan trọng và
trách nhiệm của toàn xã hội. Tăng cường kiểm toán năng lượng; xây
dựng cơ chế, chính sách đồng bộ, chế tài đủ mạnh và khả thi để khuyến
khích đầu tư và sử dụng các công nghệ, trang thiết bị tiết kiệm năng
lượng, thân thiện môi trường, góp phần thúc đẩy năng suất lao động và
đổi mới mô hình tăng trưởng.
Chiến lược nêu rõ mục tiêu tỷ lệ
tiết kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so
với kịch bản phát triển bình thường đạt khoảng 7 - 10% vào năm 2030
và khoảng 14 - 20% vào năm 2045.
Về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, rà soát, hoàn thiện
hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật xây dựng công trình tiết kiệm năng lượng;
thiết lập hệ thống đánh giá và chứng nhận Công trình hiệu quả năng lượng; thiết
lập tiêu chuẩn, đánh giá và dán nhãn năng lượng cho sản phẩm vật liệu xây dựng
có yêu cầu cách nhiệt sử dụng trong công trình xây dựng.
Nghiên cứu, xây dựng và ban hành cơ chế chính sách, quy định pháp
luật đối với mô hình kinh doanh dịch vụ tiết kiệm năng lượng (ESCO). Rà soát,
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về sử
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Tổ chức đào tạo, hướng dẫn việc kiểm
tra, giám sát, đôn đốc và đánh giá kết quả thực hiện quy định của pháp luật về
sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cho các đối tượng liên quan.
Bên cạnh đó, Quyết định yêu cầu đẩy mạnh việc thực hiện công tác
kiểm tra, giám sát và đánh giá thực hiện việc tuân thủ pháp luật về sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đối với cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng điều
chỉnh của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và các văn bản dưới
Luật.
Xây dựng sổ tay hướng dẫn việc kiểm tra, giám sát và đánh giá việc
thực hiện các quy định pháp luật về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Tăng cường tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn
nhân lực trong hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Tìm kiếm,
huy động, triển khai các dự án hỗ trợ kỹ thuật, dự án hỗ trợ đầu tư liên quan
đến sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Nghiên cứu xây dựng và đề xuất, thành lập Quỹ thúc đẩy sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên cơ sở huy động mọi nguồn lực trong và
ngoài nước phục vụ việc triển khai sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả tại
Việt Nam. Nghiên cứu bổ sung, hiệu chỉnh về cơ chế, chế tài cụ thể trong việc
giám sát kế hoạch sử dụng điện đối với các cơ sở tiêu thụ nhiều năng lượng (kể
cả các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm), thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả.
Một số mục tiêu
cụ thể của Chiến lược:
- Đáp ứng đủ nhu
cầu năng lượng trong nước, phục vụ cho các mục tiêu của Chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 - 2030, trong đó năng
lượng sơ cấp đến năm 2030 đạt khoảng 150 - 170 triệu tấn dầu quy
đổi (TOE), đến năm 2045 đạt khoảng 260 - 280 triệu TOE.
- Tỷ trọng năng lượng
tái tạo trong tổng năng lượng sơ cấp 15 - 20% năm 2030 và 65 - 70%
năm 2045.
- Xây dựng hệ
thống điện thông minh, hiệu quả, có khả năng kết nối an toàn với
lưới điện khu vực; bảo đảm cung cấp điện an toàn, đáp ứng tiêu
chí N-1 đối với vùng phụ tải quan trọng và N-2 đối với vùng phụ
tải đặc biệt quan trọng. Đến năm 2030, độ tin cậy cung cấp điện
năng thuộc tốp 4 nước dẫn đầu ASEAN, chỉ số tiếp cận điện năng
thuộc tốp 3 nước dẫn đầu ASEAN.
- Tỷ lệ tiết kiệm
năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so với kịch
bản phát triển bình thường đạt khoảng 7 - 10% vào năm 2030 và
khoảng 14 - 20% vào năm 2045.
- Giảm phát thải
khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển
bình thường ở mức 15 - 35% vào năm 2030, lên mức 70 - 80% vào năm
2045.
|
Tác
giả: Anh
Thư
Nguồn tin: tietkiemnangluong.com.vn