Để cung cấp điện năm 2025, các đơn vị chức năng thuộc
Bộ Công Thương đã xây dựng 3 kịch bản tăng trưởng phụ tải.
Tăng trưởng điện 2024 dự kiến đạt khoảng 10.09%
Báo cáo tại cuộc họp về kế hoạch cung cấp điện năm 2025 do Bộ
trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì ngày 14/11/2024,
Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia (NSMO) cho
biết, trong 10 tháng đầu năm 2024, việc cung ứng điện cho phát triển kinh tế -
xã hội đất nước được đảm bảo.
Trên cơ sở diễn biến nhu cầu phụ tải và tình hình vận hành hệ
thống điện (HTĐ) tháng 10/2024, NSMO ước thực hiện năm 2024 như sau:
Về tình hình phụ tải: Dự kiến tổng sản lượng điện sản xuất và nhập
khẩu (SX&NK) toàn hệ thống năm 2024 đạt ~309.7 tỷ kWh, tăng trưởng ~10.09%
so với năm 2023, thấp hơn ~0.878 tỷ kWh so với kế hoạch (KH) năm cập nhật. Công
suất đỉnh HTĐ quốc gia/ miền Bắc/ miền Trung/ miền Nam trong năm 2024 dự kiến
lần lượt đạt ~48955/ 25456/ 5169/ 21425 MW, tăng trưởng lần lượt ~7.52/ 8.01/
4.66/ 8.7% so với năm 2023.
Về tình hình thủy văn: Tổng sản lượng thủy điện huy động của Hệ
thống điện Quốc gia năm 2024 dự kiến đạt ~89.6 tỷ kWh/năm, cao hơn ~8.9 tỷ kWh
so với năm 2023 và ~ 9.4 tỷ kWh so với KH năm 2024. Mực nước các hồ thủy điện
cuối năm 2024, dự kiến giữ ở mức xấp xỉ so với mực nước dâng bình thường
(MNDBT). Theo đó, tổng sản lượng thủy điện tích trong hồ giai đoạn cuối năm
2024 dự kiến đạt ~14.87 tỷ kWh, thấp hơn ~32 tr.kWh so với MNDBT và tương đương
so với kế hoạch năm.
Về tình hình cung ứng nhiên liệu: Các nhà máy nhiệt điện than cơ
bản đảm bảo cung ứng nhiên liệu phục vụ phát điện trong năm 2024, với tổng
lượng than tiêu thụ cả năm ước tính đạt ~ 47.2 triệu tấn (đối với than
nội/trộn) và ~ 24.1 triệu tấn (đối với than nhập). Dự kiến tổng lượng khí tiêu
thụ trong năm 2024 đạt ~ 2750 tr.m3 (đối với khí Đông Nam Bộ) và ~ 1224 tr.m3
(đối với khí Tây Nam Bộ) căn cứ số liệu tính toán theo kế hoach vận hành tháng
11/2024 đã được Cục Điều tiết điện lực thông qua.
Về tình hình tiêu thụ khí LNG, tính đến hết tháng 10/2024, tổng
lượng tiêu thụ khí LNG đạt ~ 248 tr.m3. HTĐ quốc gia không có nhu cầu huy động
các nguồn LNG vào giai đoạn cuối năm 2024.
Đối với giai đoạn các tháng cuối năm 2024, NSMO sẽ tiếp tục thực
hiện nghiêm túc, đầy đủ, toàn diện các chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương
trong việc đảm bảo cung ứng đủ điện cho các tháng cuối năm 2024 và chuẩn bị đảm
bảo điện cho năm 2025.
3 kịch bản cung cấp điện năm 2025
Về kế hoạch cung ứng điện
năm 2025, trên cơ sở dự báo nhu cầu phụ tải, NSMO đã xây dựng 3 kịch
bản với mức tăng trưởng điện SX&NK. Cụ thể kịch bản 1 tăng trưởng 10.5%,
đạt 342.3 tỷ kWh.
Kịch bản 2: Trên cơ sở thực tế 06 tháng
đầu năm 2024, điện SX&NK toàn hệ thống đã đạt mức tăng trưởng 12.0% so với
năm 2023. Do đó, căn cứ trên tốc độ tăng trưởng thực tế và có xét đến dự phòng,
NSMO tính toán kịch bản với điện SX&NK năm 2025 tăng trưởng 13.3% so với
năm 2024, đạt 351.0 tỷ kWh.
Kịch bản 3: Nhằm dự phòng cho trường hợp
phụ tải tăng trưởng cực đoan, NSMO kiểm tra với kịch bản phụ tải tăng trưởng
cao cực đoan để kiểm tra. Do đó NSMO tính toán kịch bản cực đoan với điện
SX&NK năm 2025 tăng trưởng 14.3% so với năm 2024, đạt 354.0 tỷ kWh.
Đối với yếu tố đầu vào là thủy văn và mực
nước, NSMO đã tính toán và kiểm tra việc đảm bảo cung ứng điện với 2 kịch bản
lưu lượng nước về gồm: Kịch bản 1: Tần suất nước về các hồ thủy điện là 65%
trong cả năm 2025; Kịch bản 2: Tần suất nước về 6 tháng đầu năm là 75%, riêng
các hồ dãy sông Đà là 90%. Các tháng còn lại của năm 2025 tần suất 65%.
Nhiên liệu sơ cấp đáp ứng nhu cầu điện năm
2025, theo kế hoạch của các doanh nghiệp cung cấp nhiên liệu khí, khả năng cung
cấp khí Đông Nam Bộ năm 2025 là 2.06 tỷ m3, tương đương 5.3 – 6.8 tr.m3/ngày;
Khí LNG là ~ 5.7 tr.m3/ngày; Khả năng cấp khí PM3-CAA là 1.35 tỷ m3, tương
đương 3.5 – 4.1 tr.m3/ngày. Than được cung cấp đủ nhu cầu vận hành.
Về tiến độ nguồn điện truyền thống (thuỷ
điện, nhiệt điện) dự kiến bổ sung 4.081 MW mới từ nay đến hết năm 2025. Nguồn
nhập khẩu chủ yếu từ Lào: Tổng công suất nguồn nhập khẩu dự kiến vận hành từ
nay đến hết năm 2025 là ~ 1160 MW.
Công suất năng lượng tái tạo (NLTT) tăng
thêm từ tháng 10/2024 đến hết ngày 31/12/2025 đạt ~ 1.177 MW. Căn cứ trên thực
tế vận hành các nguồn điện NLTT những năm vừa qua, đồng thời xét đến tiến độ
công trình mới lưới điện, khả năng hấp thụ của hệ thống theo các ràng buộc kỹ
thuật, NSMO cân đối sản lượng của các nguồn NLTT (điện gió, mặt trời trang trại,
và điện mặt trời mái nhà) dự kiến năm 2025 đạt 41.86 tỷ kWh, cao hơn 4.9 tỷ kWh
so với Kế hoạch vận hành năm 2024.
Cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu điện năm 2025
Theo đánh giá của NSMO, với phương án
phụ tải tăng trưởng 10.5% (342.3 tỷ kwh – điện SX&NK, Pmax 54.269 MW),
HTĐ quốc gia cơ bản đáp ứng đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội và nhu
cầu của nhân dân trong cả năm 2025. Tuy nhiên, do phụ tải HTĐ tăng cao, HTĐ
có nhu cầu huy động các nguồn nhiệt điện than, nguồn LNG và nhiệt điện dầu ở
mức cao.
Với phương án phụ tải tăng trưởng 13.3%,
tổng sản lượng nguồn điện toàn quốc cả năm ~ 351.0 tỷ kWh: về cơ bản HTĐ
quốc gia đáp ứng cung ứng điện trong phần lớn thời gian trong năm. Tuy
nhiên, HTĐ có nhu cầu huy động gần như tối đa các nguồn nhiệt điện than, nguồn
khí nội địa gần như được huy động tối đa theo khả năng cấp và các nguồn LNG,
dầu được huy động rất cao.
Với phương án phụ tải tăng trưởng đột
biến cực đoan 14.3%, tổng sản lượng nguồn điện toàn quốc cả năm ~ 354.0 tỷ
kWh. Trong trường hợp xảy ra các yếu tố xếp chồng như thủy văn kém, phụ tải
tăng cao cực đoan, các nguồn nhiệt điện than miền Bắc sự cố trong giai đoạn cao
điểm mùa khô, HTĐ Quốc gia có khả năng phải thực hiện điều chỉnh phụ tải cũng như
huy động nguồn Diesel khách hàng trong giai đoạn tháng 04 – tháng 06. Ngoài ra,
HTĐ cần huy động gần như tối đa các nguồn nhiệt điện than, nguồn khí nội địa
gần như được huy động tối đa theo khả năng cấp và các nguồn LNG, dầu được huy
động rất cao.
Để vận hành HTĐ, đảm bảo cấp điện năm
2025, các đơn vị chức năng cũng đã đề xuất các giải pháp thực hiện tối ưu, đồng
thời kiến nghị các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan xem xét giải quyết những
vướng mắc trong cơ chế, thủ tục…
Phát biểu tại cuộc họp, Bộ trưởng Nguyễn
Hồng Diên nhấn mạnh, năm 2024 đã đáp ứng đủ nhu cầu điện cho phát triển kinh tế
xã hội. Có được kết quả đó, chúng ta rút ra bài học là dự báo đúng trúng, chuẩn
bị chu đáo, chỉ đạo kiên quyết, điều hành linh hoạt.
Theo Bộ trưởng, năm 2025, việc xây dựng kế
hoạch cần nhìn nhận cái gì tác động đến sản xuất cung ứng điện. Cụ thể, cần xét
đến yếu tố như tăng trưởng kinh tế dự kiến hơn 7 % thì tăng trưởng điện phải
đạt từ 11% trở lên (kịch bản cơ sở), các tháng cao điểm mùa khô còn phải tăng
cao hơn.
Ngoài ra còn cần xem xét đến tăng trưởng
nhu cầu điện năm 2025 và các yếu tố tác động như: Năm 2024, giải ngân của nhà
đầu tư nước ngoài đạt khoảng 40 tỷ USD điều này sẽ kéo theo nhu cầu sử dụng
điện sẽ tăng nhanh, tăng cao năm 2025.
Ngoài ra tăng trưởng điện còn có tác động
từ chuyển dịch đầu tư rất mạnh trên thế giới; Năm 2025 cũng sẽ có nhiều dự án
trọng điểm quốc gia được hoàn thành, nhiều dự án được triển khai; Tác động từ
Luật Điện lực sửa đổi dự kiến sẽ được thông qua tại kỳ họp này; Tác động từ nhiều
chính sách đã ban hành (cơ chế mua bán điện trực tiếp, cơ chế điện mặt trời áp
mái...).
Bộ trưởng cho biết, Bộ đã xây dựng 3 kịch
bản, nhưng lấy kịch bản cơ sở để điều hành với tăng trưởng phụ tải khoảng 11%,
mùa khô tăng khoảng 12%.
Kế hoạch vận hành hệ thống và cung cấp
điện năm 2025 cũng sẽ được rà soát, điều chỉnh hàng quý dựa trên sự điều hành
hàng tháng theo hướng linh hoạt. Đi kèm kế hoạch cung cấp điện, sẽ có biểu đồ
kế hoạch cung cấp than, khí.
Tác giả: Nhóm phóng viên
Nguồn tin: congthuong.vn