Mười sự kiện tiêu biểu của ngành năng lượng Việt Nam năm 2024 và những băn khoăn, lo ngại
Dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá độc lập từ thông tin, báo cáo của
Chính phủ, các bộ, ngành, doanh nghiệp; cũng như các tiêu chí bình chọn (tính
đột phá, sự khác biệt, nổi bật, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội và phù hợp
với xu thế phát triển) của các phân ngành năng lượng, Hội đồng Khoa học Tạp chí
Năng lượng Việt Nam đã bình chọn 10 sự kiện tiêu biểu, nổi bật trong năm 2024
của ngành năng lượng Việt Nam. Cùng với nhiều điểm ‘sáng’ được chọn là những
băn khoăn, lo ngại được nêu ở phần cuối 10 sự kiện. Rất mong nhận được sự chia
sẻ của bạn đọc.
. MƯỜI SỰ KIỆN TIÊU BIỂU:
1. Tái khởi động lại kế hoạch phát triển điện
hạt nhân Việt Nam.
Tiếp
theo kết luận của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XIII), ngày
25/11/2024 về thống nhất chủ trương phát triển điện hạt nhân Việt Nam, ngày
30/11/2024, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XV đã biểu quyết thông qua chủ
trương tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
Trong
khoảng thời gian rất ngắn, BCHTW Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã có những quyết
sách mạnh mẽ đối với dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam đã cho thấy tầm
quan trọng, tính cấp thiết của nguồn điện này trong “kỷ nguyên mới của dân
tộc”. Nhưng để sớm hiện thực hóa chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, chuyên gia
Tạp chí Năng lượng Việt Nam cho rằng: Bước tiếp theo, Chính phủ, các bộ, ngành
liên quan cần phải hành động quyết liệt, cụ thể, chi tiết cho các hạng mục công
việc đầu tiên. Cụ thể là:
Thứ
nhất: Chuẩn bị ngân sách cho các hoạt động chuẩn bị bổ sung điện hạt nhân vào
Quy hoạch điện VIII.
Thứ
hai: Hiện tại, 2 vị trí tại Ninh Thuận vẫn còn khả thi cho việc phát triển 2 nhà
máy điện hạt nhân đầu tiên. Tuy nhiên, để điện hạt nhân thực sự có vai trò nền
tảng và đảm bảo an ninh năng lượng, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và
công nghiệp phụ trợ, cần phải có một tầm nhìn dài hạn cho 30-50 GW điện hạt
nhân tới năm 2050, với dự kiến tối thiểu 10 vị trí khả thi. Do vậy, đây là công
việc cần đánh giá (lại), tiếp nối các nghiên cứu trước đây.
Thứ
ba: Lập cập nhật (lại) các báo cáo đánh giá công nghệ mới nhất về điện hạt nhân
(bao gồm công nghệ, giá thành, vận hành, quản lý và xử lý chất thải phóng
xạ...). Cần một báo cáo nghiên cứu nghiêm túc và độc lập để có thể cung cấp đầu
vào cho Quy hoạch điện hiệu chỉnh và quyết định chủ trương đầu tư các dự án.
Thứ
tư: Thiết lập liên lạc và tìm kiếm sự hỗ trợ từ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử
Quốc tế để có thể tận dụng tối đa sự hỗ trợ này ngay từ trước khi đưa vào Quy
hoạch điện, đảm bảo tính khả thi sau khi đã đưa vào Quy hoạch điện hiệu chỉnh.
Sự hỗ trợ này có thể dưới nhiều hình thức và đều có quy trình tiến hành chặt
chẽ.
Thứ
năm: Cần sớm thành lập “Ban Chỉ đạo Quốc gia về Điện hạt nhân Việt Nam” để điều
phối công việc chuẩn bị, trước khi chương trình điện hạt nhân được bổ sung vào
Quy hoạch điện, cũng như thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư và triển khai đầu
tư dự án.
Thứ
sáu: Thành lập “Nhóm chuyên gia tư vấn về công nghệ, an toàn, đào tạo và hợp
tác quốc tế về điện hạt nhân” để tư vấn cho Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ,
các bộ, ngành... về những vấn đề liên quan trong quá trình phát triển điện hạt
nhân Việt Nam.
2. Quốc hội thông qua Luật Điện lực (sửa đổi).
Chiều
30/11/2024, Quốc hội đã thông qua Luật Điện lực (sửa đổi). Luật Điện lực năm
2024 thay thế Luật Điện lực ngày 3/12/2004 được sửa đổi, bổ sung qua 4 lần vào
các năm 2012, năm 2018, năm 2022 và năm 2023 (mới có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2024), sau gần 20 năm triển khai thi hành. Luật Điện lực (sửa đổi) có hiệu
lực kể từ ngày 1/2/2025.
Theo
các đánh giá, Luật Điện lực (sửa đổi) gồm 9 Chương, 81 Điều đã quán triệt đầy
đủ và thể chế hóa theo đúng tinh thần Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của
Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt
Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là dự án Luật quan trọng, có tác
động lớn đến nền kinh tế, đảm bảo cho các mục tiêu tăng trưởng, phát triển của
đất nước, cũng như an ninh năng lượng quốc gia. Luật Điện lực năm 2024 đã bao
quát được các chính sách lớn (như quy hoạch, đầu tư công trình điện lực, thị
trường điện, phát triển năng lượng tái tạo) bảo đảm đồng bộ với các luật liên
quan.
Đặc
biệt, Luật bổ sung nhiều quy định để phần nào tháo gỡ những điểm nghẽn đã tồn
tại trong thời gian dài như: Nội dung phương án phát triển điện lực cấp tỉnh;
cơ chế thực hiện các dự án điện khẩn cấp; làm rõ cơ chế xử lý, thay thế đối với
các dự án điện chậm tiến độ; khung quy định cho phát triển nhanh và bền vững
các nguồn năng lượng tái tạo...
3. Ban hành một số Nghị định quan trọng hỗ trợ
năng lượng tái tạo: Nghị định về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển
điện mặt trời mái nhà (tự sản xuất, tự tiêu thụ); Nghị định về cơ chế mua bán
điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện năng lượng tái tạo với khách hàng sử dụng
điện lớn.
3.1. Chính sách điện
mặt trời đã được người dân, doanh nghiệp chờ đợi gần 4 năm qua đã có hành lang
pháp lý: Nghị định số 135/2024/NĐ-CP ngày 22/10/2024 quy định cơ chế, chính
sách khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà (tự sản xuất, tự tiêu thụ).
Theo
các nghiên cứu gần đây, tiềm năng kỹ thuật điện mặt trời mái nhà của Việt Nam
là trên 140 GW. Việt Nam hiện có 428 khu công nghiệp và hơn 1.000 cụm công
nghiệp. Trong đó, có gần 80.000 doanh nghiệp và nhà đầu tư thứ cấp trong các
khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao có tiềm năng kỹ thuật điện
mặt trời mái nhà ước tính gần 22 GW (nếu mỗi khu công nghiệp cho phép lắp đặt
50 MW).
Đặc
biệt, doanh nghiệp lắp đặt điện mặt trời sẽ mang lại lợi ích lớn khi số năm thu
hồi vốn hiện nay có thể giảm còn hơn 3 năm. Trong đó, nhóm ngành điện tử, bán
dẫn, dệt may, giày da, gỗ, chế biến chế tạo... đều muốn lắp điện mặt trời trên
mái nhà xưởng, vừa để giảm tiền điện, vừa đạt các chứng chỉ xanh trong xuất
khẩu.
Việc
áp dụng các ưu đãi về thuế, đơn giản hóa thủ tục hành chính là những yếu tố
giúp doanh nghiệp và hộ gia đình dễ dàng triển khai hệ thống điện mặt trời.
Điều này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí năng lượng, mà còn là một bước tiến
chiến lược trong việc chuyển đổi xanh, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng
0.
3.2. Với Nghị định
80/2024/NĐ-CP về cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) - đây là một bước tiến
quan trọng trong việc thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Cơ chế
này cho phép các doanh nghiệp lớn ký kết hợp đồng mua điện trực tiếp từ các nhà
phát điện năng lượng tái tạo, hướng đến việc triển khai thị trường bán lẻ điện
cạnh tranh tại Việt Nam. DPPA không chỉ tăng cường tính minh bạch, cạnh tranh
trong thị trường điện, mà còn hỗ trợ Việt Nam trong việc thực hiện lộ trình
tăng trưởng xanh.
Cơ
chế DPPA sẽ tạo thêm cơ hội với các quy định mới cho ‘người mua’ và ‘người bán’
trong thị trường điện, đa dạng hóa thị trường mua bán điện, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp phát điện năng lượng tái tạo có điều kiện vay vốn đầu tư dự
án, giảm rủi ro. Đồng thời, doanh nghiệp (khách hàng lớn) có thể đạt được Chứng
chỉ năng lượng tái tạo, giảm phát thải khí nhà kính, hỗ trợ cho doanh nghiệp
trên con đường phát triển bền vững.
4. Thi công kỷ lục dự án đường dây 500 kV mạch 3
(Quảng Trạch - Phố Nối) và lần đầu tiên một doanh nghiệp trong nước làm chủ
thiết kế, chế tạo thành công máy biến áp 500 kV có công suất lớn nhất trên lưới
điện truyền tải Việt Nam.
4.1. Dự án đường dây
500 kV mạch 3 được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) giao Tổng công ty Truyền
tải điện Quốc gia (EVNNPT) làm chủ đầu tư, có tổng chiều dài 519 km, 1.177 vị
trí cột, đi qua địa bàn 211 xã, phường của 43 huyện thuộc 9 tỉnh. Đây là dự án
với lần đầu tiên có sử dụng kết cấu xây dựng cột thép ống hai mạch, dây dẫn
phân pha tiết diện 4x500 mm2 và 4x400 mm2 (khác với đường dây 500 kV mạch 1 và
mạch 2 trước đây). Dự án được thi công thần tốc trong hơn 6 tháng để hoàn thành
đóng điện toàn tuyến, với chiều dài 519 km (từ Quảng Trạch - Quảng Bình đến Phố
Nối - Hưng Yên).
Đường
dây 500 kV mạch 3 (Quảng Trạch - Phố Nối) là các công trình truyền tải điện có
vai trò đặc biệt quan trọng để nâng cao độ dự trữ ổn định trên giao diện Bắc -
Trung, bổ sung công suất từ khu vực Bắc Trung bộ cho khu vực miền Bắc, giảm tải
cho các đường dây 500 kV hiện hữu, đảm bảo tiêu chí N-1.
Từ
dự án đường dây 500 kV mạch 3, chúng ta đã rút ra được một số bài học về công
tác chỉ đạo, quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện; sự chung sức đồng lòng các
cấp chính quyền và người dân địa phương; nỗ lực, cố gắng của tất cả các lực
lượng tham gia xây dựng và vai trò quan trọng của công tác truyền thông... Đây
là những bài học quý để áp dụng cho các dự án trọng điểm tiếp theo, nhằm đảm
bảo nguồn điện, lưới điện cho sự phát triển của đất nước trong tương lai tới.
4.2. Ngày 16/12/2024,
Tổng công ty Thiết bị điện Đông Anh (EEMC) đã xuất xưởng máy biến áp 500 kV -
900 MVA (3x300 MVA). Đây là thành quả của tinh thần lao động sáng tạo, sự nỗ
lực vượt bậc của tập thể kỹ sư, công nhân lao động EEMC khi lần đầu tiên một
doanh nghiệp trong nước làm chủ công tác thiết kế, chế tạo thành công máy biến
áp 500 kV có công suất lớn nhất trên lưới điện truyền tải Việt Nam.
Từ
năm 1995, EEMC đã chế tạo thành công máy biến áp (MBA) cao áp đầu tiên 110
kV-25 MVA mang thương hiệu Made in Vietnam. Năm 2003 EEMC tiếp tục chế tạo
thành công MBA cấp truyền tải 220 kV - 125 MVA, và tháng 10/2010 EEMC cho ra lò
MBA 500 kV - 450 MVA (3x150).
Việc
thiết kế, chế tạo thành công MBA 500 kV - 3x300 MVA đã giúp EEMC đào tạo được
đội ngũ kỹ sư thiết kế, kỹ sư công nghệ, quản lý và công nhân kỹ thuật lành
nghề để làm chủ dây chuyền thiết bị công nghệ chế tạo máy biến áp 500 kV. Thành
công này cũng là tiền đề để EEMC tiếp tục phấn đấu nghiên cứu phát triển sản
phẩm mới như: Biến dòng điện, biến điện áp, kháng điện 500 kV, trạm GIS cách
điện bằng khí trơ, dao cách ly… từng bước nội địa hóa các thiết bị điện chính
trên lưới điện Việt Nam.
5. Tập đoàn Công nghiệp Năng lượng Quốc gia
(Petrovietnam - PVN) hạ thủy, bàn giao 33 chân đế điện gió ngoài khơi cho nhà
đầu tư điện gió số một thế giới và khởi công chế tạo 4 trạm biến áp ngoài khơi
(OSS) cho một trong những dự án điện gió lớn nhất trên thế giới.
5.1. Với việc hạ thủy,
bàn giao chân đế điện gió ngoài khơi cho dự án CHW2204 của khách hàng Orsted
(Đan Mạch) - nhà đầu tư, phát triển điện gió ngoài khơi số một thế giới hiện
nay - đây là lần đầu tiên Việt Nam có được hợp đồng xuất khẩu giá trị lớn và
ghi danh trên bản đồ năng lượng tái tạo ngoài khơi thế giới. Dự án gồm 33 chân
đế, mỗi chân đế cao khoảng 85 mét và nặng khoảng 2.300 tấn, tạo hơn 3.000 việc
làm cho Tổng công ty CP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC) và gần 100 nhà
cung cấp trong nước.
5.2. Còn với dự án
Baltica 02 tại biển Baltic - một trong những dự án điện gió lớn nhất trên thế
giới - đây là lần đầu tiên một doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu và xuất khẩu
các trạm biến áp điện gió ngoài khơi sang thị trường năng lượng châu Âu. Các
cấu kiện chính của dự án sẽ được chế tạo tại công trường của PTSC tại TP. Vũng
Tàu - một căn cứ cảng trọng điểm ở khu vực phía Nam Việt Nam.
Từ
các sự kiện trên cho thấy, ngoài các lĩnh vực truyền thống, PVN đã lĩnh xướng
vai trò tiên phong trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi. Từ những cam kết hợp
đồng với các đối tác nước ngoài trước đây, năm 2024, đơn vị thành viên của mình
là PTSC tiếp tục thúc đẩy, cụ thể hóa hoạt động đầu tư, thi công các dự án điện
gió ngoài khơi ở trong và ngoài nước.
6. Đoàn tàu mang theo 16 bồn ISO chứa LNG nhiên
liệu đã hoàn thành hành trình 1.700 km trên tuyến đường sắt từ Nam ra Bắc an
toàn.
Sau
sự kiện chuyến hàng LNG đầu tiên cập cảng Cái Mép, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong
năm 2023 - đánh dấu sự kiện đầu tiên và quan trọng nhất trong lộ trình chuyển
đổi năng lượng sạch Việt Nam; ngày 9/9/2024, đoàn tàu mang theo 16 bồn ISO chứa
LNG nhiên liệu đã hoàn thành hành trình 1.700 km trên tuyến đường sắt từ Nam ra
Bắc, về tới ga Đông Anh (Hà Nội) an toàn, đúng lịch trình. Tại đây, LNG được
chuyển sang các xe bồn chuyên dụng để phục vụ các hộ tiêu thụ công nghiệp tại
miền Bắc.
Sự
khởi đầu thành công của hoạt động vận chuyển LNG Nam - Bắc đánh dấu một chương
mới cho ngành công nghiệp khí, cũng như ngành vận tải đường sắt tại Việt Nam.
Hoạt động này đã nâng cấp chuỗi cung ứng LNG của PV GAS nói riêng và hoàn thiện
bản đồ năng lượng quốc gia nói chung. Đây là nền tảng quan trọng để PV GAS tiếp
tục phát triển chuỗi giá trị sản phẩm khí và gói giải pháp năng lượng toàn
diện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của thị trường khí Việt Nam.
7. Khởi công dự án Nhà máy đốt rác phát điện lớn
nhất thế giới (khi hoàn thành cả 3 giai đoạn) tại Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh.
Ngày
20/7/2024, Tập đoàn Bamboo Capital và BCG Energy đã khởi công xây dựng Nhà máy
đốt rác phát điện Tâm Sinh Nghĩa (tại Củ Chi, TP. HCM).
Giai
đoạn 1 của nhà máy được triển khai từ năm 2024 đến năm 2025 có tổng vốn đầu tư
6.400 tỷ đồng, công suất đốt 2.000-2.600 tấn rác/ngày, công suất phát điện 60
MW, sản lượng điện phát lên lưới dự kiến lên đến 365 triệu kWh/năm và giúp giảm
phát thải khoảng 257.000 tấn CO2/năm.
Giai
đoạn 2 của dự án dự kiến sẽ được triển khai từ năm 2026-2027, công suất đốt rác
được nâng lên đến 6.000 tấn/ngày, công suất phát điện lên đến 130 MW.
Giai
đoạn 3 của nhà máy dự kiến được triển khai từ năm 2027 đến 2029, công suất đốt
rác lên tới 8.600 tấn/ngày, công suất phát điện đạt tới 200 MW - trở thành nhà
máy điện rác lớn nhất thế giới (khi hoàn thành cả 3 giai đoạn).
8. Sau hơn 10 năm chậm tiến độ, dự án mỏ khí Lô
B chính thức được khởi công.
Bằng
những nỗ lực của cả hệ thống chính trị, năm 2024, Tập đoàn Công nghiệp Năng
lượng Quốc gia (Petrovietnam - PVN) đã chính thức khởi công Giàn công nghệ
trung tâm (CCP) dự án Lô B. Đây là sự kiện quan trọng, đánh dấu dự án thượng
nguồn chính thức được triển khai, làm cơ sở cho các dự án thành phần, gồm trung
nguồn (đường ống vận chuyển khí về bờ) và hạ nguồn (các nhà máy điện khí Ô Môn)
triển khai đồng bộ theo chuỗi nhiên liệu.
Lô
B, theo giá trị hợp đồng và công suất thiết kế, hiện là dự án dầu khí ngoài
khơi lớn nhất tại Việt Nam. Giá trị tổng thầu trọn gói cho phạm vi thi công
giàn xử lý trung tâm, các giàn khai thác dầu khí (đầu giếng khoan) và hệ thống
ống ngầm nội mỏ lên đến 1,2 tỷ USD (tính đến giai đoạn hoạt động thương mại vào
năm 2028). Từ thời điểm đó cho đến hết vòng đời dự án (hơn 20 năm), nhà điều
hành sẽ tiếp tục triển khai gia công chế tạo thêm khoảng hơn 40 giàn khai thác,
hơn 800 giếng khoan khai thác dầu khí và hàng trăm km hệ thống ống ngầm nội mỏ.
Tổng chi phí đầu tư ngoài khơi ước tính khoảng 6,6 tỷ USD.
Về
kỹ thuật và quản lý giao diện, việc đưa được phạm vi gia công, chế tạo khối
thượng tầng về Cảng PTSC (Vũng Tàu) là những nỗ lực vượt bậc và là kỳ tích của
PVN cũng như PTSC.
Theo
thiết kế tổng thể, khối lượng, trọng lượng của giàn CPP Lô B rất lớn, nằm trong
top 5 những giàn CPP trong khu vực ASEAN và lớn nhất tại Việt Nam. (Khối thượng
tầng CPP Lô B là 24.000 tấn và chân đế là hơn 10.000 tấn).
Từ
hướng tiếp cận chuyên nghiệp và nguồn lực sẵn có, kết hợp với công nghệ cao của
đối tác liên danh McDermott (Hoa Kỳ), giải pháp gia công chế tạo CPP Lô B ở
Vũng Tàu chính là giải pháp tối ưu của dự án Lô B nói riêng và Chuỗi dự án khí,
điện Lô B - Ô Môn nói chung.
Chúng
ta cần biết, trong trường hợp bất khả kháng (chiến tranh, dịch bệnh), việc
không thể huy động chuyên gia và thiết bị từ nước ngoài về là chuyện bình
thường. Nhưng ngay cả trong tình trạng bình thường như hiện nay, việc dùng xà
lan lớn để vận chuyển, lai dắt một khối thượng tầng nặng 24.000 tấn qua một
chặng đường rất xa từ nước ngoài về (nếu trong trường hợp có bão) sẽ có rủi ro
rất cao, thậm chí có khi lật, đổ, sẽ là thảm họa cho cả Chuỗi dự án. Do vậy,
việc PVN và PTSC triển khai EPCI ở trong nước, không chỉ giảm thiểu những rủi
ro và phụ thuộc vào yếu tố nước ngoài, mà còn tiết giảm chi phí đầu tư, thời
gian để tích hợp với tiến độ của các dự án điện trên bờ.
Về
thu ngân sách và xã hội, việc triển khai gia công chế tạo tại Vũng Tàu không
chỉ mang lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn tạo được hơn 3.000 việc
làm trong suốt gần 4 năm. Chưa kể, phạm vi công việc sẽ gia tăng sau khi hoàn
tất giai đoạn 1, đi vào giai đoạn phát triển mở rộng.
Nhìn
xa hơn, việc gia công chế tạo giàn CPP Lô B lớn nhất lịch sử ngành Dầu khí Việt
Nam và là một trong những giàn khai thác dầu khí lớn nhất trong khu vực ASEAN
là điểm nhấn khẳng định năng lực vượt trội của PTSC, không chỉ là nhà thầu đáp
ứng các giải pháp tối ưu cho các dự án EPCI dầu khí trong nước, mà còn vươn tầm
ra thị trường khu vực và thế giới. Từ đó, tái khẳng định và là cơ sở vững chắc
để PVN và PTSC triển khai Trung tâm Năng lượng Bà Rịa - Vũng Tàu, làm điểm tựa
cho các chuỗi dự án hỗn hợp năng lượng trong nước và nước ngoài sắp tới.
9. Năm thứ 2 liên tiếp, Tập đoàn Công nghiệp
Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) ghi nhận doanh thu kỷ lục (kể từ khi thành
lập) và khánh thành tuyến băng tải (hai chiều) đầu tiên ở Việt Nam.
9.1. Năm 2024, mặc dù
chi phí sản xuất tăng do biến động đầu vào và gián đoạn khai thác than do ảnh
hưởng của cơn bão số 3 (Yagi), nhưng TKV đã hoàn thành các chỉ tiêu chủ yếu của
kế hoạch sản xuất, kinh doanh.
Năm
2024, TKV khai thác đạt trên 38 triệu tấn than; than tiêu thụ đạt 46,7 triệu
tấn; doanh thu đạt 167.230 tỷ đồng (năm 2023 là gần 166.000 tỷ đồng); nộp ngân
sách nhà nước 25.500 tỷ đồng và đảm bảo việc làm, thu nhập ổn định cho người
lao động. Đặc biệt, TKV đã thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đảm bảo cung cấp đủ
than theo nhu cầu của các nhà máy nhiệt điện. Đây là tiền đề để hướng tới kế
hoạch khai thác 50 triệu tấn than và doanh thu 172,8 nghìn tỷ đồng trong năm
2025.
9.2. Ngày 18/9/2024,
Công ty Kho vận và Cảng Cẩm Phả - Vinacomin tổ chức khánh thành công trình hệ
thống băng tải than từ kho G9 đi Cảng Hóa Chất - Mông Dương. Đây là công trình
chào mừng 30 năm thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam, nay là Tập đoàn Công
nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (10/10/1994 - 10/10/2024).
Dự
án hệ thống băng tải than từ kho G9 đi Cảng Hóa Chất - Mông Dương được khởi
công ngày 25/4/2024 và hoàn thành vào cuối tháng 8/2024. Tuyến băng tải có điểm
đầu tuyến là tháp chuyển tải TCT2 (có sẵn) và điểm cuối là tháp nhận than TCT1
(đầu tư mới) tại kho than mặt bằng Cảng Hóa Chất. Đây là tuyến băng tải được
đầu tư lắp đặt hai chiều đầu tiên trong Tập đoàn CN Than - Khoáng sản Việt Nam
(TKV).
Tuyến
băng tải có chiều rộng băng 1.200 mm; chiều dài tuyến hơn 1.348 m. Năng suất
vận chuyển 3 triệu tấn than/năm. Trong đó, vận chuyển 1,5 triệu tấn than/năm
theo chiều đi và 1,5 triệu tấn than/năm theo chiều ngược lại.
Sau
khi đi vào hoạt động, tuyến băng tải than từ kho G9 đi Cảng Hóa Chất - Mông
Dương sẽ phục vụ vận chuyển than thương phẩm từ kho G9 ra Cảng Hóa Chất- Mông
Dương và vận chuyển than cám đã pha trộn tại cảng cấp cho Nhà máy Nhiệt điện
Mông Dương 1. Qua đó, đáp ứng cho sản xuất, tiêu thụ than trong điều kiện nhu
cầu than tiêu thụ tăng, đảm bảo công tác môi trường, bảo vệ tài nguyên than, an
ninh trật tự khu vực Cảng Hóa Chất - Mông Dương.
10. Chuyển Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc
gia (A0) từ EVN về Bộ Công Thương.
Ngày
1/8/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 752/QĐ-TTg về việc
tách Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (A0) từ Tập đoàn Điện lực Việt
Nam và chuyển thành Công ty TNHH MTV Vận hành Hệ thống điện và Thị trường điện
Quốc gia (NSMO) trực thuộc Bộ Công Thương.
Việc
tách A0 ra khỏi EVN, thành lập NSMO là bước đi đúng đắn, quan trọng để phát
triển một thị trường điện bền vững, không chỉ thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo sát
sao của Chính phủ đối với ngành điện, mà còn là quá trình phát triển tất yếu
phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước ta, đảm bảo sự minh bạch trong điều
hành hệ thống điện và thị trường điện, là bước tiến quan trọng trong phát triển
thị trường cạnh tranh.
II. NHỮNG BĂN KHOĂN, LO NGẠI:
Mặc
dù có nhiều điểm ‘sáng’, ngành năng lượng Việt Nam trong năm 2024 vẫn còn những
điểm ‘chưa sáng’, gây băn khoăn, lo ngại:
Thứ
nhất: Sau những phát triển ‘bùng nổ’, nhiều nguồn điện gió, điện mặt trời đang
loay hoay về những thiếu sót, hoặc sai phạm trong quá trình đầu tư xây dựng,
mới đây, trong “Hội nghị công bố và triển khai nghị quyết của Chính phủ về chủ
trương, phương hướng tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho các dự án năng lượng tái
tạo”, ngày 12/12/2024, Thủ tướng Chính phủ đã kết luận về việc xử lý vấn đề này
như sau:
“Nguyên tắc là không hợp thức hóa những người
làm sai, nhưng phải có giải pháp cho những công trình đã đầu tư hoàn chỉnh, cần
khai thác để không lãng phí nguồn lực của xã hội, trên tinh thần hài hòa lợi
ích của nhà nước, nhà đầu tư và người dân. Phát huy tối đa hiệu quả đầu tư các
dự án, chống lãng phí...”.
Băn
khoăn ở đây là: Thời gian để ‘gỡ’ sẽ kéo dài bao lâu và như thế nào? Bởi nguồn
lực xã hội to lớn đang mất đi được tính theo ‘từng giờ trôi qua’, nguy cơ phá
sản của các doanh nghiệp đã đến cận kề, ngân hàng đứng trước rủi ro lớn, kéo
theo nhiều hệ lụy tới nền kinh tế và môi trường đầu tư kinh doanh sụt giảm uy
tín...
Do
đó, nên chăng, cấp thẩm quyền cần mạnh dạn chấp thuận những nội dung đã thực
hiện (tuy có thể chưa được quy định trong các văn bản pháp luật lúc bấy giờ),
nhưng không có vụ lợi riêng và phù hợp, mang lại lợi ích chung cho xã hội tại
thời điểm thực hiện trước đây.
Thứ
hai: Tuy Luật Điện lực (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua, nhưng cơ chế cho
phát triển điện gió ngoài khơi vẫn nằm chờ các quy định hướng dẫn cụ thể hơn.
Đồng thời, những nội dung vướng mắc trong triển khai lập và thực hiện quy hoạch
phương án phát triển điện cấp tỉnh, bổ sung quy hoạch, đồng bộ giữa quy hoạch
điện với các quy hoạch khác; cũng như nhiều nội dung về thủ tục đầu tư dự án
vẫn đang chờ được sửa đổi trong Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư…
Lo
ngại ở đây là: Thời gian chỉ còn 6 năm, liệu có dự án điện gió ngoài khơi nào
(trong mục tiêu quy hoạch 6.000 MW) được vào vận hành vào năm 2030?
Thứ
ba: Một vài dự án nguồn nhiệt điện than ở miền Bắc nằm trong quy hoạch vẫn chưa
được khởi công như dự án Nhiệt điện Nam Định, hoặc thiếu vốn để tiếp tục xây
dựng như dự án Nhiệt điện An Khánh - Bắc Giang. Còn với các dự án điện LNG đang
gặp khó khi đàm phán PPA về các điều khoản Qc, giá mua điện, phí kho cảng, vận
chuyển, nên chưa thể khởi công, trong khi nhu cầu về công suất dự kiến tăng
nhanh trong năm 2025 và các năm tiếp theo.
Những
vấn đề nêu trên đã cho chúng ta thấy những bế tắc, rủi ro phá sản của một số
nhà đầu tư năng lượng tái tạo và nguy cơ thiếu điện ở miền Bắc (giai đoạn
2026-2030) vẫn còn hiển hiện./.
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP
CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Nguồn tin: nangluongvietnam.vn