TIẾP TỤC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ TRO, XỈ TẠI TRUNG TÂM ĐIỆN LỰC VĨNH TÂN
Hiện nay trên địa bàn
tỉnh Bình Thuận có 03 nhà máy nhiệt điện than hoạt động gồm Vĩnh Tân (1, 2, 4)
với 7 tổ máy với tổng công suất 4.284 MW. Các nhà máy nhiệt điện than hoạt động
với cơ chế than được đốt để đun nóng nước, sau đó hơi nước được truyền ở áp suất
cao đến các turbine có kết nối với máy phát điện. Tro, xỉ là kết quả của quá
trình đốt than của các nhà máy Nhiệt điện than
Tại các nước phát
triển trên thế giới, tro, xỉ được ứng dụng làm vật liệu xây dựng, sản xuất sơn, véc-ni, nhựa, giấy, thủy tinh,
phân bón, men xanh (gốm sứ) qua đó giúp tiết kiệm các nguồn nguyên liệu khác.
Tuy nhiên trước đây, tro, xỉ phát sinh từ hoạt động đốt than của các Nhà máy
Nhiệt điện than tại Việt Nam chưa được quan tâm ứng dụng trong các ngành nghề
mà chỉ được xem là chất thải. Do đó, hàng triệu tấn tro, xỉ phát sinh hằng năm
tại các Nhà máy Nhiệt điện than chưa được sử dụng với mục đích phù hợp mà chỉ
được đem ra chôn lấp tại các bãi xỉ gây ra những lo ngại về môi trường.
Nhằm bảo vệ
môi trường, tiết kiệm diện tích đất làm bãi chứa tro, xỉ cũng như giảm sử dụng
tài nguyên khoáng sản để sản xuất vật liệu xây dựng, đảm bảo phát triển bền vững,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 12/4/2017 về phê
duyệt Đề án đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro, xỉ nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất,
phân bón làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và trong các công trình xây
dựng. Qua đó, tro, xỉ đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn kỹ
thuật làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và sử dụng trong các công
trình xây dựng được coi là sản phẩm hàng hóa vật liệu xây dựng và được điều chỉnh
theo quy định của pháp luật về sản phẩm hàng hóa. Đồng thời, ưu tiên sử dụng
tro, xỉ, đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật làm nguyên
liệu sản xuất vật liệu xây dựng và cho các công trình xây dựng (công trình dân
dụng, công nghiệp, giao thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, hoàn nguyên
mỏ...).
Hằng năm, với 03
Nhà máy Nhiệt điện than Vĩnh Tân (1, 2, 4), lượng tro xỉ phát sinh trung bình
khoảng 2,7 triệu tấn. Qua đó, với tiềm năng cung ứng nguyên liệu sản xuất vật
liệu xây dựng cũng như thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định
số 452/QĐ-TTg, các Nhà máy Nhiệt điện than Vĩnh Tân đã xây dựng Đề án xử lý,
tiêu thụ tro, xỉ và được phê duyệt theo quy định; đồng thời mời các đơn vị có chức
năng để thực hiện hợp chuẩn, hợp quy cho tro, xỉ phát sinh. Tro, xỉ phát sinh của
các Nhà máy Nhiệt điện than Vĩnh Tân được hợp chuẩn, hợp quy phù hợp với nhóm sản
phẩm xi măng, phụ gia cho xi măng và bê tông, phụ gia khoáng cho bê tông đầm
lăn, vật liệu san lấp…Trên cơ sở đó, với chất lượng và các Giấy chứng nhận hợp
chuẩn, hợp quy của tro bay của các Nhà máy nhiệt điện than Vĩnh Tân hiện có,
ngày càng nhiều đơn vị tham gia tiêu thụ tro xỉ, sử dụng làm vật liệu xây dựng:
gạch không nung, vật liệu san lấp, phụ gia trạm trộn bê tông, phụ gia xi măng…
Tại Bình Thuận,
tro, xỉ của Nhà máy Nhiệt điện than Vĩnh Tân 2 đã được thí điểm sử dụng san lấp
hoàn trả mặt bằng khu vực mỏ đá Hang Cò với khối lượng san lấp khoảng 400.000 tấn.
Với sự nỗ lực cùng với các giải pháp đồng bộ nhằm giải quyết lượng tro, xỉ phát
sinh của các Nhà máy Nhiệt điện than Vĩnh Tân, từ việc chưa tiêu thụ được tro, xỉ
mà chỉ thực hiện giải pháp chôn lấp tại các bãi xỉ. Đến nay, các Nhà máy Nhiệt
điện than Vĩnh Tân đã tiêu thụ phần lớn tro, xỉ phát sinh đạt khoảng 55-118%
trong năm 2022 (bao gồm lượng tro, xỉ phát sinh trước đó được chôn lấp tại bãi
xỉ) phần nào định hướng cho việc tiến tới tiêu thụ hoàn toàn tro, xỉ phát sinh
trong thời gian tới.
Tuy nhiên, lượng tro, xỉ đã được chôn lấp tại
bãi xỉ của các Nhà máy Nhiệt điện than Vĩnh Tân so với yêu cầu giải phóng bãi xỉ
theo quy định tại Quyết định số 452/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ vẫn chưa đạt
yêu cầu. Do đó, trong thời gian sắp tới, các Nhà máy Nhiệt điện than Vĩnh Tân sẽ
tiếp tục có biện pháp đẩy mạnh công tác xử lý, tiêu thụ tro xỉ theo đúng tiến độ
của Đề án xử lý, tiêu thụ tro xỉ đã phê duyệt. Trong đó chú trọng việc đảm bảo
đáp ứng lượng tồn trữ tại bãi chứa của từng nhà máy nhiệt điện theo quy định tại
Quyết định số 452/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.